Thế Nào là một Bài Báo Khoa Học

 Thế nào là một “bài báo khoa hc”?

Tác giả: GS Nguyễn Vn Tuấn

thế nào là một bài báo khoa học

(ảnh là góc làm việc tại nhà của mình :) còn bài là của GS Nguyễn Văn Tuấn)

Sau khi đọc qua lot bài chỉ dẫn cách viết một bài báo khoa hc trên trang web www.ykhoa.net một số bđọc viết thư cho tôi hi thế nào là một bài báo khoa hc? Có bn hi cụ thể: “có phi những bài báo cáo trong các hội nghị khoa hc là một bài báo khoa hc không?” Thođầu tôi rất ngc nhiên về câu hi này, nhng sau khi trao đổi với nhiềđồng nghiệp trong và ngoài nước tôi, thấy có thể đây là một vấđề về nhận thức, bởi vì nhiều nhà nghiên cứu vẫn cha phân biệđược những khác biệt và giá trị ca những bài báo trên diễđàn khoa hc quốc tế.

Báo điện tử VietnamNet số ra ngày 11/3/2004 trong bài phng vấn giáo sư Đỗ Trần Cát về tiêu chuẩn mới trong việc phong chức danh giáo sư có một trao đổđáng chú ý như sau:

“Phóng viên: “Thực ra, đến nay vẫn cha có định ngha nào về ‘bài báo khoa hc’. Vậy nm nay, với những sửđổi như ông nói thì quy định về "bài báo khoa hc" có gì khác?

Trả lời: Bài báo khoa hc phi là công trình khoa hc chứđựng kết quả nghiên cứu mới, phù hợp với chuyên ngành đăng ký chức danh. Bài báo đó phđược công bố trên một trong những tp chí khoa hc chuyên ngành quy địnhCụ thể là: Các tp chí uy tín do các Hộđồng chức danh giáo sư ngành, liên ngành lựa chn, đề nghị thường trực Hộđồng nhà nước về chức danh giáo sư quyếđịnh.” (http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/03/54931/, truy nhập ngày 22/11/2005)

Ở đây, trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ nới rộng định ngha trên và cụ thể hóa thế nào là một bài báo khoa hc. Tôi sẽ xoay quanh ba khía cnh chính: phân loi bài báo khoa hc, tập san khoa hc và cơ chế bình duyệt bài báo khoa hc.

Trong hođộng nghiên cứu khoa hc, bài báo khoa hđóng một vai trò hết sức quan trng. Nó không chỉ là sn phẩm tri thức, mà còn là một loi tiền tệ ca giới làm khoa hc, bởi vì qua đó mà người ta có thể đánh giá khả nng chuyên môn và nng suất khoa hc ca nhà nghiên cứu. Giới làm nghiên cứu khoa hc nói chung nhất trí rằng cái chỉ tiêu số để đề bt một nhà khoa hc là dựa vào số lượng và chất bài báo khoa hđã công bố trên các tập san chuyên ngành [1]. Trên bình diện quốc gia, số lượng bài báo khoa hc là một thướđo về trình độ khoa hc kĩ thuật và hiệu suất khoa hc ca một nước. Chính vì thế mà ti các nước Tây phương, chính phủ có hẳn một cơ quan gồm những chuyên gia chuyên đđếm và đánh giá những bài báo khoa hc mà các nhà khoa hc ca họ đã công bố trong nm.

Nhng cng giống như sn phẩm công nghệ có nhiều hình thức và giá trị khác nhau, các bài báo khoa hc cng xuất hiện dưới nhiều dng khác nhau và giá trị cng không đồng nhất. Đối với người ngoài khoa hc và công chúng nói chung, phân biệđược những bài báo này không phi là một chuyện dễ dàng chút nào. Thật ra theo kinh nghiệm ca người viết bài này, ngay cả trong giới khoa bng và giáo sư đại hc, có khá nhiều người vẫn cha biết thế nào là một bài báo khoa hc nghiêm chnh và có lẽ vì hiểu sai cho nên một số giáo sư đã trình bày trong lí lch khoa hc ca mình một cách thiếu chính xác, có khi khá khôi hài. Bài viết ngắn này sẽ bàn qua về tiêu chuẩn ca một bài báo khoa hc. Phần lớn những phát biểu trong bài viết này được rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong lnh vực y sinh hc, và có thể không hoàn toàn đúng cho các lnh vực nghiên cứu khác mà bđọc có thể bổ sung thêm.

page1image1425429424 page1image1425429712

Bài báo khoa hc

Nói một cách ngắn gn, bài báo khoa hc (tiếng Anh: “scientific paper” hay có khi viết ngắn là paper) là một bài báo có nội dung khoa hđược công bố trên một tập san khoa hc (scientific journal) đã qua hệ thống bình duyệt (peer-review) ca tập san. Ở đây có ba vế cđịnh ngha mà bài này sẽ lần lược bàn đến: nội dung bài báotập san, và cơ chế bình duyệt. Trước hết xin bàn về nội dung khoa hc ca một bài báo.

Như nói trên, giá trị khoa hc ca một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung ca bài báo. Bởi vì báo cáo khoa hoc xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, giá trị ca chúng cng không nhất thiếđồng nhất. Sau đây là một số bài báo khoa hc thông thường và tôi xếp loi theo thang giá trị (cao nhấđến thấp nhất).

Thứ nhất là những bài báo mang tính cống hiến nguyên th(original contributions). Đây là những bài báo khoa hc nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay đề ra một phương pháp mới, một ý tưởng mới, hay một cách diễn dch mới. Có khi một công trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần phi có nhiều bài báo nguyên thđể truyềđạt những phát hiện này. Một công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trials) hay một công trình dch tễ hc lớn có thể có đến hàng trm bài báo nguyên thy.

Cống hiến mới cho khoa hc không chỉ giới hn trong phát hiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương pháp mớđể tiếp cận một vấđề c, hay một cách diễn dch mới cho một phát hiện xa xa. Do đó các bài báo khoa hở dng này cng có thể xem là những cống hiến nguyên thy. Tất cả những bài báo này đều phi qua hệ thống bình duyệt một cách nghiêm chnh.

Tất cả các bài báo thể hiện những cống hiến nguyên thy, trên nguyên tắc, đều phi thông qua hệ thống bình duyệt trước khi được công bố. Một bài báo không hay cha qua hệ thống bình duyệt cha thể xem là một “bài báo khoa hc”.

Thứ hai là những bài báo nghiên cứu ngắn, mà tiếng Anh thường gi là “short communications”, hay “research letters”, hay “short papers”, v.v... Đây là những bài báo rất ngắn (chỉ khong 600 đến 1000 chữ, tùy theo qui định ca tập san) mà nội dung chủ yếu tập trung gii quyết một vấđề rất hp hay báo cáo một phát hiện nhỏ nhng quan trng. Những bài báo này vẫn phi qua hệ thống bình duyệt nghiêm chnh, nhng mứđộ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyên thy. Cần phi nói thêm ở đây là phần lớn những bài báo công bố trên tập san Nature (một tập san uy tín vào hàng số 1 trong khoa hc) là “Letters”, nhng thực chấđó là những bài báo nguyên thy có giá trị khoa hc rất cao, chứ không phi những lá thư thông thường.

Thứ ba là những báo cáo trường hợp (case reports). Trong y hc có một loi bài báo khoa hc xuất hiện dưới dng báo cáo trường hợp, mà trong đó nội dung xoay quanh chỉ một (hay một số rất ít) bệnh nhân đặc biệt. Đây là những bệnh nhân có những bệnh rất hiếm (có thể 1 trên hàng triệu người) và những thông tin như thế cng thể hiện một sự cống hiến tri thức cho y hc. Những báo cáo trường hợp này cng qua bình duyệt, nhng nói chung không khó khn như những bài báo nguyên thy.

Thứ tư là những bài điểm báo (reviews). Có khi các tác giả có uy tín trong chuyên môn được mời viếđiểm báo cho một tập san. Những bài điểm báo không phi là những cống hiến nguyên thy. Như tên gi (cng có khi gi là perspective papers) bài điểm báo thường tập trung vào một chủ đề hp nào đó mà tác giả phđọc tất cả những bài báo liên quan, tóm lược li, và bàn qua về những điểm chính cng như đề ra một số đường hướng nghiên cứu cho chuyên ngành.

Những bài điểm báo thường không qua hệ thống bình duyệt, hay có qua bình duyệt nhng không nghiêm chnh như những bài báo khoa hc nguyên bn.

Thứ nm là những bài xã luận (editorials). Có khi tập san công bố một bài báo nguyên thy quan trng với một phát hiện có ý ngha lớn, ban biên tập có thể mời một chuyên gia viết bình luận về phát hiệđó. Xã luận cng không phi là một cống hiến nguyên thy, do đó giá trị ca nó không thể tương đương với những bài báo nguyên thy. Thông thường, các bài xã luận không qua hệ thống bình duyệt, mà chỉ được ban biên tậđọc qua và góp vài ý nhỏ trước khi công bố.

Thứ sáu là những thư cho tòa son (letters to the editor). Nhiều tập san khoa hc dành hẳn một mc cho bđọc phn hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là những bài viết rất ngắn (chỉ 300 đến 500 chữ, hay một trang -- tùy theo qui định ca tập san) ca bđọc về mộđiểm nhỏ nào đó ca bài báo đã đăng. Những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa hđã đăng. Những thư bđọc không phi qua hệ thống bình duyệt, nhng thường được gửi cho tác giả bài báo nguyên thđể họ đáp lời hay bàn thêm. Tuy nói là thư bđọc, nhng không phi thư nào cng đượđăng, nếu không nêu được vấđể một cách súc tích và có ý ngha.

Và sau cùng là những bài báo trong các kỉ yếu hội nghTrong các hội nghị chuyên ngành, các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả nghiên cứu ca mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu ca hội ngh. Có hai loi bài báo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceedings papers), và nhóm 2 gồm những bn tóm lược (abstracts).

Những bài báo xuất hiện dưới dng “proceeding papers” thường ngắn (khong 5 đến 10 trang), mà nội dung chủ yếu là báo cáo sơ bộ những phát hiện hay phương pháp nghiên cứu mới. Tùy theo hội nghđạđa số những bài báo dng này không phi qua hệ thống bình duyệt, hay có qua nhng cng không nghiêm chnh như hệ thống bình duyệt ca những bài báo nguyên thy. Cần nhấn mnh rằng đây không phi là những bài báo khoa hc bởi vì chúng cha xuất hiện trên các tập san khoa hc và qua bình duyệt nghiêm chnh.

Các bn tóm lược, như tên gi, thực chất là những bn tin khoa hc ngắn (chỉ dài từ 250 chữ đến 500 chữ) mà nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu. Những bn tin này cng không qua hệ thống bình duyệt. (Thực ra, không ai có thể thẩđịnh một công trình nghiên cứu với 250 hay 500 chữ!) Vả li, một hội nghị chuyên môn có khi nhậđến 5000 bài tóm lược, cho nên ban tổ chức không thể có đủ ngườđể làm công việc bình duyệt bài vở một cách kĩ lưỡng và có hệ thống. Phần lớn, nếu không muốn nói là 100%, các bài tóm lượđềđược chấp nhận cho in trong các kĩ yếu ca hội ngh. Một lí do để chấp nhận tất cả các bài tóm lược là ban tổ chức muốn có nhiều người dự hội nghị (nhiều người tham dự cng có ngha là tng thu nhập cho ban tổ chức) cho nên họ không muốn từ chối một bài báo nào.

Tập san khoa hc và hệ số ảnh hưởng

Trong hođộng khoa bng, các tập san khoa hc là những tờ báo xuất bđịnh kì, có thể là mỗi tuần một lần, mỗi tháng, hay mỗi 3 tháng, thậm chí hàng 6 tháng một lần. Mc tiêu chính ca các tập san khoa hc là chuyên chở thông tin đến giới nghiên cứu khoa hc nhằm từng bước phát triển khoa hc. Các tập san khoa hc còn là những diễđàn khoa hđể giới khoa hc có cùng chuyên môn trao đổi và hc hi với nhau. Phần lớn các tập san khoa hc rất chuyên sâu về một bộmôn khoa hc như American Heart Journal (chuyên về tim), American Journal of Epidemiology (dch tễ hc), Bone (xương), Blood (máu), Neurology (thần kinh hc) ... nhng một số tập san như ScienceNatureProceedings of the National Academy of Science USA ... công bố tất cả nghiên cứu từ bất cứ bộ môn khoa hc nào.

Trên thế giới ngày nay, có khong 3000 tập san y sinh hđược công nhận, và con số vẫn tng mỗi nm. (Được công nhậở đây có ngha là được nằm trong danh sách ca tổ chứIndex Medicus). Tiêu chuẩn mà các tập san này dựa vào để công bố hay không công bố một bài báo khoa hc cng rất khác nhau. Một số tập san như ScienceNature, Cell, hay Physical Reviews chỉ công bố những bài báo khoa hc mà ban biên tập cho rằng thể hiện những cống hiến cơ bn, những phát hiện quan trng, hay những phương pháp mới có tiềm nng ứng dng rộng rãi trong cộng đồng khoa hc. Do đó, các tập san này từ chối công bố hầu hết các bài báo khoa hc gửđến cho h. Theo một báo cáo gầđây các tập san này chỉ công bố khong 1% những bài báo họ nhậđược hàng nm. Nói cách khác, họ từ chối khong 99% bài báo. Trong y hc, các tập san hàng đầu như New England Journal of MedicineLancet, và JAMA từ chối khong 95% các bài báo gửđến, và chỉ công bố những bài báo quan trng trong y khoa.

Giá trị khoa hc ca một bài báo do đó không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập san công bố cng đóng một vai trò quan trng. Chẳng hn như trong y hc một bài báo trên các tập san lớn như New England Journal of Medicine (NEJM) hay Lancet có giá trị hn hẳn một bài báo trên các tập san y hc ca Pháp hay Singapore Medical JournalĐiều này đúng bởi vì những công trình nghiên cứu quan trng thường được công bố trên các tập san lớn và có nhiều ngườđọc, nhng quan trng hn hết là những tập san này có một hệ thống bình duyệt nghiêm túc.

Uy tín và giá trị ca một tập san thường đượđánh giá qua hệ số ảnh hưởng (Impact Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và tổng số lần những bài báo đó được tham kho hay trích dẫn (citations). Theo định ngha hiện hành, IF ca một tập san trong nm là số lần tham kho trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 nm trước [2]. Chẳng hn như trong 2 nm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố 470 bài báo khoa hc nguyên thy; trong nm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham kho hay trích dẫđến 470 bài báo đó; và hệ số IF là 10.011 / 470 = 21,3. Nói cách khác, tính trung bình mỗi bài báo nguyên thy trên tờ Lancet có khong 21 lầđược tham khđến hay trích dẫn.

Vì yếu tố thời gian ca việc tính toán, cho nên hệ số IF cng thay đổi theo thời gian và cách xếp hng tập san cng thay đổi theo. Chẳng hn như vào thập niên 1990s British Medical Journal từng nằm trong nhóm các tập san hàng đầu trong y hc, nhng đếđầu thế kỉ 21 tập san này bị xuống cấp nghiêm trng. Trong y sinh hc, có một số tập san y hc thuộc vào hàng “top 10” như sau (theo số liệu nm 2003): Annual review of immunology. (52,28), Annual review of biochemistry (37,65), Physiological reviews (36,83), Nature reviews Molecular cell biology (35,04), New England Journal of Medicine (34,83), Nature reviews Cancer (33,95), Nature (30,98), Nature medicine (30,55), Annual review of neuroscience (30,17), Science (29,16), Cell (26,63), Nature genetics (26,49), Lancet (18,32), Journal of clinical investigation (14,30), v.v... (Chi tiết có thể tham kho trong bn thống kê phía dưới bài viết).

Do đó, tập san nào có hệ số IF cao cng được hiểu ngầm là có uy tín cao và nh hưởng cao. Công bố một bài báo trên tập san có hệ số IF cao có thể đồng ngha với mứđộ quan trng và tầnh hưởng ca bài báo cng cao. Xin nhấn mnh là “có thể” mà thôi, bởi vì qua cách tính vừa trình bày trên, IF là chỉ số phn ánh nh hưởng ca một tập san, chứ không đo lường hệ số ảnh hưởng phi một bài báo cụ thể nào. Một bài báo trên một tập san có hệ số IF thấp nhng có thể được trích dẫn nhiều lần. Chẳng hn như một bài báo viết về một phương pháp phân tích thống kế trong di truyền hc công bố trên tập san Behavior Genetics (với IF thấp hn 2), nhng được trích dẫn và tham kho hn 10.000 lần trong 20 nm sau đó!

Khiếm khuyết ca hệ số IF đã được nêu lên khá nhiều lần trong quá khứ [3,4]. Ngay cả người sáng lập ra hệ số IF cng thú nhận những thiếu sót ca hệ số này. Một số bộ môn khoa hc có xu hướng (hay truyền thống) công bố ra nhiều bài báo ngắn, hay đơn thuần là họ có truyền thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí tự mình trích dẫn mình! Có nhiều nhà khoa hc trích dẫn hay liệt kê

những bài báo mà họ hoặc là không hay chđọc (nhng chỉ trích dẫn theo sự trích dẫn ca người khác, đây là một vi phm khoa hc). Ngoài ra, những bộ môn nghiên cứu lớn (như y khoa chẳng hn) có nhiều nhà nghiên cứu và con số bài báo cng như chỉ số trích dẫn cng tng theo. Nói một cách ngắn gn, con số thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn chnh hưởng ca nhiều yếu tố ngoi vi hn là chất lượng khoa hc. Cng không loi trừ khả nng những công trình nghiên cứu tồi, sai lầm vẫđược nhiều người nhắđến và trích dẫn (để làm gương cho người khác). Phần lớn những bài báo được trích dẫn nhiều lần là những bài báo liên quan đến phương pháp, hay thuộc lođiểm báo. Nhiều nghiên cứu “tốt”, có chất lượng thường đi trước thời gian, và người ta chỉ hiểu rõ giá trị ca chúng sau nhiều nm sau khi công bố.

Dù bíết rằng hệ số IF có nhiều khiếm khuyết như thế, nhng hiện nay chúng ta cha có một hệ thống nào công bằng và tốt hđể thẩđịnh chất lượng một tập san. Cho nên, hệ số IF vẫđược sử dng như là một thướđo chất lượng, với một sự dè dặt và cẩn thận cần thiết.

Cơ chế bình duyệt

Để hiểu cơ chế bình duyệt, tôi xin nói sơ qua về qui trình công bố một bài báo khoa hc như sau. Sau khi tác giả gửi bn tho ca bài báo đến một tập san chuyên môn, tổng biên tập (Editor-in- Chief) hay phó tổng biên tập (Associate Editors) ca tập san sẽ xem lướt qua bài báo và quyếđịnh bài báo có xứng đáng được gửi ra ngoài để bình duyệt hay không. Nếu không xứng đáng, tổng biên tập sẽ báo ngay (trong vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không được bình duyệt. Nếu thấy bài báo có giá trị và cầđược bình duyệt, tổng biên tập sẽ gửi bn tho cho 3 (hoặc có khi 4) người bình duyệt.

Những người bình duyệt là những chuyên gia, giáo sư có cùng chuyên môn với tác giả và am hiểu về vấđề mà bài báo quan tâm. Tác giả sẽ không biết những người này là ai, nhng những người bình duyệt thì biết tác giả là ai vì họ có toàn bộ bn tho! Những người bình duyệt sẽ đọc và đánh giá bài báo dựa theo những tiêu chí thông thường như mc tiêu nghiên cứu có đem li cái gì mới không, phương pháp nghiên cứu có thđáng hay không, kết quả đã được phân tích bằng các phương pháp thích hợp hay không, trình bày dữ kiện có gn gàng và dễ hiểu hay không, phần tho luận có diễn dch “quá đà” hay không, phần tham kho có đầđủ hay không, ngôn ngữ bài báo và vn chương có chuẩn hay không, v.v. và v.v. Nói tóm li là họ xem xét toàn bộ bài báo, và viết báo cáo cho tổng biên tập. Họ có thể đề nghị tổng biên tập nên chấp nhận hay từ chốđăng bài báo. Tuy quyếđịnh cuối cùng là ca tổng biên tập, nhng thông thường chỉ một người bình duyệđề nghị từ chối bài báo thì số phận bài báo coi như đã rồi”. Giai đon này tốn khong 1 đến 4 tháng.

Sau khi đã nhậđược báo cáo ca người bình duyệt, tổng biên tập sẽ chuyển ngay cho tác gi. Tùy theo đề nghị ca những người bình duyệt, tổng biên tập có thể cho tác giả một cơ hộđể phn hồi những phê bình ca người bình duyệt, hay từ chốđăng bài. Nếu có cơ hội phn hồi, tác giả phi trả lờtừng phê bình một ca từng người bình duyệt. Bài phn hồi phđược viết như một báo cáo, và tất cả những thay đổi trong bài báo tác giả phi báo cho tập san biết. Giai đon này tốn từ đến 3 tháng.

Sau khi nhậđược phn hồi ca tác gi, tổng biên tập và ban biên tập có thể quyếđịnh chấp nhận hay từ chối bài báo. Nếu bài phn hồi không trả lời tất cả phê bình, hay trả lời không thđáng, tổng biên tập có thể từ chốđăng bài ngay mà không cần gửi cho người bình duyệt xem li. Nếu bài phn hồi cần xem xét li tổng biên tập sẽ gửi cho những người bình duyệt xem li một lần nữa và tác giả có khi phi phn hồi một lần sau cùng. Giai đon này cng tốn từ đến 3 tháng.

Nói chung một bài báo từ lúc nộp bài cho đến lúc xuất hiện trên mặt giấy – nếu mi bình duyệt và phn hồđều trôi chy – tốn khong 9 tháng đến 12 tháng. Bởi vì thời gian quá lâu như thế, cho nên một số tác giả có khi quyếđịnh tự công bố trước dưới dng sơ bộ (còn gi là “pre-

print”) để chia sẻ vớđồng nghiệp. Ngày nay, với sự tiến bộ phi thường ca công nghệ thông tin và internet, nhiều tập san đã có thể công bố ngay bài báo trên hệ thống internet (trước khi in) nếu bài báo đã qua bình duyệt và được chấp nhận cho công bố. Một số tập san còn hođộng hoàn toàn trên hệ thống internet mà không phi qua hình thức in ấn gì c.

Cơ chế bình duyệt là một cơ chế có mđích chính là thẩđịnh và kiểm tra các bài báo khoa hc trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa hc. Cơ chế này còn đượứng dng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu ti các nước Tây phương. Tuy một cơ chế bình duyệt như thế không phi hoàn toàn vô tư và hoàn ho, nhng nó là một cơ chế tốt nhất hiện nay mà giới khoa hđều công nhận.

Như trình bày trên, cơ chế bình duyệt có mđích chính là đánh giá và kiểm tra các bài báo khoa hc trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập chí khoa hc. Cơ chế này còn đượứng dng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu. Qua cơ chế này mà tập san có thể ngn chận những cặn bã, rác rưởi khoa hc, và giúp cho tập san hay các cơ quan cung cấp tài trợ đđến một quyếđịnh công bằng. Trên nguyên tắc, đây là một cơ chế hay và công bằng, bởi vì những người duyệt bài hay công trình nghiên cứu là những người có cùng chuyên môn, họ chính là những người có thẩm quyền và khả nng đánh giá chất lượng ca công trình nghiên cứu. Nhng nhà khoa hc cng chỉ là những người có tình cm và thiên kiến, cng là những người chu sự chi phối ca các nhu cầu tất yếu, cng cnh tranh, cho nên kết quả duyệt bài khoa hc không phi lúc nào cng hoàn toàn khách quan. Rất nhiều người từng tri qua cái cơ chế này cho rằng đó là một hệ thống không hoàn chnh và có khi thiếu công bằng. Tuy nhằm mđích ngn chận rác rưởi khoa hc, nhngcơ chế kiểm duyệt bài vở không thể (hay ít khi nào) phát hiện những lỗi lầm mang tính cố ý lường gt (như giả to số liệu chẳng hn), bởi vì chức nng ca cơ chế này không làm việđó. Do đó, đối với một số nhà khoa hc, cơ chế bình duyệt là một cách làm việc vô bổ và vô giá trị [5,6]. Nhng vấđề thực tế là ngoài cơ chế bình duyệđó, cha có cơ chế nào tốt hn! Và vì thế, chúng ta vẫn phi dựa vào cơ chế này để đánh giá một bài báo khoa hc.

Ý ngha xã hội ca bài báo khoa hc

Đọđếđây, tôi hi vng bđọđã hiểđược thế nào là một bài báo khoa hc. Xin nhắc lđể nhấn mnh: một bài báo chỉ khi nào được xem là “bài báo khoa hc” nếu nó đã qua cơ chế bình duyệt và được công bố trên một tập san chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới dng “abstracts” hay thậm chí “proceedings” không thể xem là những bài báo khoa hc bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên. Thế nhng trong thực tế đã có rất nhiều nhà khoa hc, kể cả ở trong nước, có lẽ do hiểu lầđã liệt kê những “abstracts” và “proceedings” như là những bài báo khoa hc trong lí lch khoa hc ca hĐối với nhiều người không am hiểu hođộng khoa hc thì những ngộ nhận này chẳng nh hưởng gì to lớn, nhng đối với giới làm nghiên cứu khoa hc nghiêm chnh, một lí lch khoa hc với toàn những “bài báo khoa hc” như thế cho biết nhiều về tác giả hn là khả nng nghiên cứu khoa hc ca tác gi.

Trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa hc trên các diễđàn khoa hc quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao nng suất khoa hc, ca nước nhà. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa hc mà các nhà khoa hc công bố trên các tập chí khoa hđể đo lường và so sánh hiệu suất khoa hc giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lnh vực nào, phi nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa ca nước ta cha cao. Phần lớn các công trình nghiên cứu ti nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hođộng khoa hc, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến sĩ hay thc sĩ , nếu chđược công bố trên các diễđàn khoa hc quốc tế thì công trình đó coi như cha hoàn tất, bởi vì nó cha qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hn.

Theo tác giả Phm Duy Hiển (Tp chí Tia Sáng số Tháng 6 nm 2005) trong nm 2003, các nhà khoa hc Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tp chí hay tập san khoa hc trong nước. Con số này rấư là ấn tượng, song đó chỉ là những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện ca các nhà khoa hc Việt Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả Phm Duy Hiển, trong nm 2001 các nhà khoa hc Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo khoa hc trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các nhà khoa hc ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 nm qua (tính từ 1965) các nhà khoa hc ti Việt Nam chỉ có khong 300 bài báo trên các tập san y sinh hc quốc tếĐó là những con số cực kì khiêm tốn, khi so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài).

Như đã có lần phát biểu, một công trình nghiên cứu thường được tài trợ từ tiền bc ca người dân. Khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phi nhờ đến sự tham gia ca tình nguyện viên hay ca bệnh nhân. Nếu một công trình nghiên cứđã hoàn tất mà kết quả không được công bố, thì công trình nghiên cứđó có thể xem là có vấđề về đức và đạđức khoa hc, và nhà nghiên cứu có thể xem như cha hoàn thành ngha vụ ca mình với sự đóng góp ca người dân. Do đó, báo cáo khoa hc trên các diễđàn khoa hc quốc tế là mộngha vụ ca nhà nghiên cứu, là một cách gián tiếp cám n sự đóng góp ca bệnh nhân và giúp đỡ ca dân chúng qua sự qun lí ca nhà nước.

Trong quá trình hội nhập thế giới, xã hội có quyềđòi hi nhà khoa hc nước ta phi có tầm vóc và đứng vững trên trường khoa hc quốc tếĐã đến lúc chúng ta phđặt ra những tiêu chuẩn nghiêm túc mà quốc tế đã và đang sử dng để thẩđịnh thành tích nghiên cứu khoa hc ca các giáo sư và nhà nghiên cứở nước ta.

Chú thích và tài liệu tham kho:

[1] Để xét đề bt giáo sư trong các đại hc Tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về ging dy, tài trợ nghiên cứu và phc vụ xã hội, một tiêu chuẩn quan trng số 1 là số lượng và chất lượng bài báo khoa hc cứng viên. Theo một qui định gần như “bất thành vn”, muốđượđề bt lên “assistant professor” (giáo sư dự khuyết) ứng viên phi có từ 3-5 bài báo khoa hc; một associate professor (phó giáo s) phi có từ 30 bài báo khoa hc trở lên; và một professor (giáo s) phi có từ 50 bài báo trở lên. Đây chỉ là những tiêu chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu. Cố nhiên, các tiêu chuẩn này còn tùy thuộc vào trường đại hc và chuyên môn, cho nên không ai có thể đưa ra một qui định chính xác được.

[2] Garfield E. The impact factor [internet] Current Contents 1994 20;3-7 (cited 16 August 2002):http://sunweb.isinet.com/isi/hot/essays/journalcitationreports/7.html.

[3] Seglen PO. Why the impact factor of journals should not be used for evaluating research. BMJ 1997; 314:497-9.

[4] Phelan TJ. A compendium of issues for citation analysis. Scientometrics 1999; 45:117-36.

[3] Garfield E. Random thoughts on citationology: its theory and practice. Scientometrics 1998; 43:69-76.
[4] Campanario J. Peer review for journals as it stands today, Part 2. Science Communication 1998; 19:277-306

[5] Cole S, et al. Chance and consensus in peer review. Science 214:881-6, 1981.

Đăng nhận xét

0 Nhận xét